
Giữa một con đường truông
thăm thẳm, vắng vẻ âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ.
Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am chỉ có một cụ sư già, thui thủi một
mình quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống
củi, vừa lớn vừa cao ngất, củi xếp rất vuông vắn, thẳng thắn, dường như được
săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm sóc.
Một hôm, trời đã tối, nhà sư vừa lên đèn được một chập, thì có hai người khách
đến trước ngưỡng cửa, vái và thưa rằng:
Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới theo dõi đến
đây. Mong chờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung, chấp tay đáp:
Mô Phật! Cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để chấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà
sư tiếp:
Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng.
Ngày nay là ngày thỏa mãn ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ
chân. Âu cũng là duyên trước…
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn
khách đến câu hỏi:
Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Tôi quy y Phật pháp từ nhỏ bé, rừng thiền có thể nói rằng đã
viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra… Và từ ấy tôi chỉ tụng
kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
Sư phụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
Mô Phật! Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời!
Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai người rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy
rằng đức Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: hai nghìn năm trăm năm về sau, Phật
pháp sẽ đến chỗ chi ly ấy là hồi mạt pháp. Phật Di Lặc sẽ xuống trần cứu độ
chúng sinh và chỉnh đốn lại đạo. Nay kể cũng đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã
xuống trần và độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một ngàn
lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi, bây giời chỉ còn lần
thứ một nghìn, lần tụng chót của đêm nay. Chắc hai ngài trước đã có duyên lành,
đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy.
Đến đây bữa cơm chay đã mãn, khách mệt mỏi xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong
am cho thanh khiết rồi bước lại trước bàn Phật khêu bấc đèn chậm rãi như nện
vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân vang đánh dấu tiếng mõ dai đằng
đẵng.
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi một vài câu:
Tội nghiệp thay cho cụ sư già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà
không giác ngộ Phật pháp đã lập ra trên hai nghìn năm trăm về trước, tránh sao
khỏi chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ phải lo tài bồi phát triển
mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ, rồi sinh ra môn, ra phái, ấy là
nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền có hơn tám mươi bốn nghìn cội khác
nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó và nghĩ thêm rằng: Nếu bây
giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp,
cho cao kịp với sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách
nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón mời các Pháp sắp ra đời.
Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong mỏi của đức
Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách, giữa một cái am vắng vẻ, không dè có kẻ nghe trộm.
Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am, khi am vừa mới dựng lên và đã từng
nghe chín trăm chín mươi chín lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người,
biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn
lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư, là hễ tụng xong lần thứ một
nghìn, thì nhà sư sẽ lên dàn hỏa mà tự thiêu… rồi nó nghĩ: Nhà sư lòng còn mê
tín, chưa được giác ngộ, phỏng có thiêu than thì làm sao nhập được Niết Bàn.
Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân. Đợi chừng nào người
giác ngộ rồi sẽ hay.
Rồi con thằn lằn quyết định: Phải ngăn ngừa, đừng để cho nhà sư tụng xong lần
thứ một nghìn, nó nghĩ được một kế: ấy là bò lên bàn Phật, đến giữa đèn dầu,
ráng sức mà uống cạn đĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng
nữa.
Một sức mầu nhiệm đã giúp con thằn lằn đạt được ý nguyện: Chỉ trong một hơi mà
dĩa dầu đã cạn, bộ kinh chỉ mới tụng quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc
nhiên, nhưng nghĩ: Hay là hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành
chứng kiến việc đắc đạo của mình? Âu là xếp kinh nghỉ, chờ ngày mai khách lên
đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng sau đó, đêm nào cũng vậy, buổi kinh đọc chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà
sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại rằng khi
xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm kia dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn dĩa dầu
xem sự thể do đâu? Nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung
lên nhà sư dừng gõ mõ, mà mắng rằng:
- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn
bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa,
tự châm lửa mà thiêu mình.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm
Ngài gọi nhà sư mà dạy:
Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ
lòng của phát ta là thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo,
mà người dục vọng quá nhiều: Bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng
là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là: THAM. Bởi tham mới giận đánh con thằn lằn
ấy là
- SÂN, bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ
tụng kinh rồi đắc đạo, ấy là SI. Có đủ tham, sân, si, tất phải phạm tội sát
sinh, thì dầu ăn chay trường trọn đời cũng chưa bù được.
“Tội của ngươi lớn lắm, phải tu luyện rất nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta
truyền cho Kim Cang La Hán hốt hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi
đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng
sinh ấy sẽ được quy nguyên, trở lại nghiệp thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây
mà thành chánh quả”. Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
Nhà sư chưa được giác ngộ mà gây tội, tội ấy đáng giá là một
mà thôi. Còn nhà ngươi, được nghe lời hai người khách, được giác ngộ một phần rồi,
mà làm tội, tội ấy đáng kể là ngươi.
Hồn con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
Bạch Phật Tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát
thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn chận việc tụng
niệm của người? Đã đành rằng tụng kinh như nhà sư là một việc mê tín, song vẫn
là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại, nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi
để dắt ngươi vào, thì làm sao cho được? Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do,
ngươi là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác ngộ, quỳ lạy mà xin lỗi:
Xin Phật Tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa,
để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sinh do những hạt tro, mà các vị
Kim Can La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
Xin Phật Tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi? Phật đáp:
Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự chọn mình chọn hình mà
hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió không biết trụ vào đâu, để có thể vừa
dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người
đông như số hột tro do một xác thiêu ra. Thật chưa hề lúc nào có một linh hồn bị
trừng phạt phải đau khổ đến thế.
Một hôm, trong hồi phiêu bạt, nó trông thấy bóng của hai ông khách khi xưa đã đến
ngủ ở am. Vội vã, nó bay theo, vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:
Hai ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu
tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ đến
bến.
Hai ông khách đáp:
Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại
dám đèo bồng mang lại một giảng pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo
trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý
kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cám ơn trước. Một người khách nói:
Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc
đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm
sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình.
Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được
thì tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người.
Nghe đến đó, thì một điểm linh quanh bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người
khách thứ hai nói tiếp:
Xưa nay trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể
một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng
triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng
trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hóa triệu triệu
người… Rồi cũng phải luyện văn tâm, để cho văn người có thể nhen nhúm được
trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của người như dầu
rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên.
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
Con đường ấy khó đi cho đến hết được, Song chắc chắn là đi
cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật Tổ. Vậy tôi xin sẽ cố gắng.
Mặc chiếc áo không thành ông thầy tu, nhưng ông thầy tu không thể thiếu chiếc
áo. Không phải chuyên tụng kinh là thành Phật, nhưng muốn thành Phật không thể
không tụng kinh.